1. Xu páp
1.1 Nhiệm vụ và điều kiện làm việc
– Là chi tiết trực tiếp đóng mở các cửa hút và cửa xả để thực hiện quá trình trao đổi khí.
– Trong kỳ nạp, xu páp nạp mở để hút hỗn hợp không khí – nhiên liệu vào. Trong kỳ xả, xu páp xả mở để xả khí xả ra. Cả hai loại xu páp đều đóng trong kỳ nén và kỳ nổ để giữ kín buồng đốt.
1.2 Phân loại
Theo kết cấu của đĩa xu páp, người ta chia thành 4 loại: Xu páp bằng, xu páp lõm, xu páp lồi, xu páp lồi chứa Na.
Cấu tạo gồm 3 phần: đĩa xu páp (đế xu páp), đuôi và thân xu páp.
– Đĩa xu páp (đầu xu páp, đế xu páp): được nối với thân bằng bán kính lượn lớn để xu páp được cứng vững, dễ tản nhiệt và ít gây cản đối với dòng khí. Mép đĩa xu páp có một góc nghiêng tạo mặt tì lên ổ đặt thường dùng góc 45o hoặc 30o so với mặt phẳng vuông góc với đường tâm xu páp. Mặt tì này được gọi là mặt công tác. Mặt công tác trên đĩa xu páp phải được rà khít với ổ đặt.
– Thân xu páp: hình trụ tròn, bên ngoài gia công có độ bóng cao, thân có thể đặc hoặc rỗng, phần rỗng có thể chứa chất làm nguội.
– Đuôi xu páp: Là phần trực tiếp nhận lực để mở xu páp. Đuôi có lỗ hoặc rãnh vòng (hình trụ hoặc côn) để lắp chốt hoặc mảnh hãm, đĩa tựa.
Ở một số xu páp có rãnh lắp vành bảo hiểm tránh tụt xu páp khi bị lông bộ phận hãm.
Đuôi xu páp có thể được gắn một lớp kim loại chịu va đập, mài mòn.
1- Đĩa xu páp (đầu xu páp, đế xu páp); 2- Thân xu páp; 3- Đuôi xu páp.
Đường kính đĩa và đuôi xu páp hút thường lớn hơn xu páp xả nếu dùng
2 hoặc 4 xu páp cho mỗi xy lanh, còn nếu dùng 3 xu páp thì thường là 2 xu páp hút. Trong điều kiện bị giới hạn về không gian đặt các xu páp trên nắp xy lanh, người ta luôn luôn ưu tiên mở rộng diện tích lưu thông cho xu páp hút, để nạp được nhiều môi chất vào xy lanh. Vì vậy, đĩa xu páp hút thường có đường kính lớn hơn đường kính đĩa xu páp xả.
Chiều rộng b phụ thuộc tương quan giữa độ cứng của ổ đặt với đĩa xu páp. Để tránh hiện tượng đĩa xu páp bị mòn thành rãnh trên bề mặt và để thuận tiện khi sửa chữa, ổ đặt xu páp được làm “mềm” hơn đĩa xu páp. Khi đó bề rộng b của đĩa xu páp lớn hơn bề rộng của ổ đặt.
Chiều rộng b của mặt công tác: b = (0,05÷0,12).dn
Trong đó:
b- bề rộng mặt công tác.
dn- đường kính đĩa xu páp.
Thông thường chiều rộng mặt công tác vào khoảng 2 mm.
Tiếp xúc với môi chất có nhiệt độ cao, áp suất lớn, chứa chất độc hại, đuôi và đĩa xu páp chịu ma sát va đập. Vì vậy, xu páp hút được làm bằng thép hợp kim crôm – niken, xu páp xả làm bằng thép chịu nhiệt (crôm-niken-silic). Những vật liệu đó chống mài mòn và chống ăn mòn tốt.
1.3 Kết cấu
1.3.1 Kết cấu đĩa xu páp:
a. Dạng bằng; b. Dạng lõm; c. Dạng lồi; d. Dạng lồi chứa Na
– Kết cấu của đĩa xu páp bằng là chế tạo đơn giản, có diện tích chịu nhiệt nhỏ (hình 1.2 a).
– Kết cấu đĩa xu páp lõm có đặc điểm là bán kính góc lượn giữa phần thân và phần đĩa rất lớn nên được dùng làm xu páp nạp để cho dòng khí nạp đỡ bị ngoặt. Mặt dưới của đĩa xu páp làm lõm vào tạo thành hình loa kèn để giảm trọng lượng của đĩa hay toàn bộ xu páp (hình 1.2 b).
– Kết cấu của đĩa xu páp lồi được dùng cho xu páp xả để cải thiện quá trình xả khí đã cháy, cụ thể là giảm các vùng chết khi xả để xả sạch (hình 1.2 c); xu páp lồi rỗng bên trong chứa Natri (Na) với lượng Na khoảng 50-60% thể tích của lỗ rỗng. Khi động cơ làm việc, natri nóng chảy (t0 nóng chảy của Na là 970C) và khi xu páp chuyển động lên xuống natri lỏng sẽ sóng sánh trong lỗ rỗng và do đó có tác dụng tải nhiệt từ đĩa xu páp lên phần thân để tản nhiệt (hình 1.2 d).
1.3.2 Kết cấu thân xu páp:
– Thân xu páp có nhiệm vụ dẫn hướng và tản nhiệt cho đĩa xu páp. Thân xu páp có thể làm liền hoặc làm rời và có thể rỗng bên trong chứa Na như trên đã trình bày.
– Thân xu páp được mài chính xác suốt chiều dài, thân chuyển động tịnh tiến trong bạc dẫn hướng.
Đường kính thân xu páp: d = (0,15÷0,25).dn
Trong đó: d- đường kính thân xu páp dn- đường kính đĩa xu páp.
Chiều dài của thân xu páp: Lt = (2,5÷3,5).dn
Trong đó:
Lt- chiều dài thân xu páp; dn- đường kính xu páp.
1.3.3 Kết cấu đuôi xu páp:
Đuôi xu páp có hình côn, có rãnh để lắp móng hãm (hình a, b) hoặc có lỗ để lắp chốt (hình c); chốt phải được chế tạo bằng vật liệu có sức bền cao, bề mặt đuôi xu páp ở một số động cơ được chế tạo bằng thép ostenit và được tôi cứng.
– Đối với hệ thống phân phối khí xu páp đặt được cam dẫn động trực tiếp không qua các chi tiết trung gian như cần bẩy (đòn gánh), mỏ cò thì đuôi xu páp có ren để lắp đĩa tựa lò xo (hình d).
– Đối với hệ thống khí dẫn động gián tiếp, để tránh hiện tượng các chi tiết giãn nở làm kênh xu páp nên phái có khe hở nhiệt. Khe hở này do nhà chế tạo qui định, thông thường được xác định bằng thước lá có độ dày d bằng khe hở qui định lắp vào đuôi xu páp khi điều chỉnh (hình 1.5).
Khi điều chỉnh khe hở nhiệt, xu páp phải đóng kín. Sau khi điều chỉnh xong các vít điều chỉnh được hãm lại bằng các ốc hãm trên con đội đối với hệ thống phối khí xu páp đặt (hình 1.5 a) và trên mỏ cò đối với hệ thống phối khí xu páp treo (hình 1.5 b).
1.3.4 Bộ phận tự xoay xu páp:
Để tăng tuổi thọ và đảm bảo độ kín khít cho xu páp khi đóng, ở một số động cơ có bộ phận tự xoay xu páp (thường là xu páp xả), xu páp được thiết kế sao cho có thể xoay quanh đường tâm khi làm việc.
1– Lò xo xu páp; 2- Thân xu páp; 3- Bạc dẫn hướng xu páp;
4– Lò xo đĩa; 5- Bi trượt; 6- Vỏ bọc; 7- Nắp xi lanh
8- Đế; 9- Lò xo hồi vị; 10- Rãnh trượt; e- Khoảng lệch tâm
– Khi xu páp mở, lò xo xu páp 1 bị nén lại. Lực của lò xo xu páp, thông qua vỏ bọc 6 ép vành ngoài của lò xo đĩa 4 xuống phía dưới. Sau khi lò xo đĩa tì lên các viên bi 5, mặt đầu bên trong của lò xo đĩa dần dần tách khỏi mặt tì trên đế 8. Khi đó các viên bi 5 sẽ trượt trong các rãnh 10. Do ma sát ở các bề mặt tiếp xúc giữa bi 5 và lò xo đĩa 4 nên đĩa cùng với vỏ bọc 6, lò xo xu páp 1 và xu páp xoay đi một góc. Đồng thời các lò xo hồi vị 9 (có độ cứng rất nhỏ) bị nén lại. Khi xu páp đóng dần, lực ép của lò xo 1 giảm, lò xo đĩa dần dần được giải phóng trở về trạng thái ban đầu. Đầu tiên, mặt đầu bên trong tì trở lại đế 8. Sau đó, đĩa lò xo tách hẳn khỏi các viên bi 5. Lò xo hồi vị 9 đẩy bi 5 trở lại vị trí ban đầu.
– Với nguyên tắc làm việc trên, sau vài chục lần xu páp đóng mở, xu páp có thể xoay được một vòng. Do xu páp xoay được nên thân xu páp sẽ lâu mòn và đĩa xu páp tiếp xúc khít với ổ đặt hơn, do đó ít bị cong vênh.
* Xoay cưỡng bức:
Đặt đầu cần bẩy tì lệch tâm trên đuôi xu páp (hình 1.6). Nhờ lực ma sát tại đầu cần bẩy với khoảng lệch tâm này thì khi mở sẽ tạo ra một momen làm xoay xu páp.
* Làm mát xu páp:
Khi hoạt động, các xu páp tiếp xúc với buồng cháy, xu páp xả lại luôn luôn tiếp xúc với khí xả có nhiệt độ từ 800 ÷ 1100oC. Vì vậy, nhiệt độ xu páp xả khi hoạt động có thể lên tới 800 ÷ 850oC (động cơ xăng) và 500 ÷ 600oC (động cơ diesel). Còn xu páp nạp được khí nạp làm mát nên nhiệt độ của nó chỉ vào khoảng (300 ÷ 400)oC.
– Thân và mép đầu xu páp mát nhất vì nhiệt độ ở khu vực này được truyền cho ống dẫn hướng và đế rồi tới nuớc làm mát máy xy lanh. Khu vực giữa thân và mép đầu là nóng nhất.
– Một số xu páp xả có thân rỗng chứa đầy sodium (Na). Kim loại này nóng chảy ở 97.8oC, khi động cơ hoạt động, nhiệt độ của xu páp khiến Na chuyển thánh chất lỏng, dễ luân chuyển để lấy nhiệt từ phần nóng phía đầu xu páp đưa tản ra phần thân. Nhờ đó nhiệt độ xu páp xả có thể thấp hơn so với trường hợp tâm đặc tới 100oC.
Lưu ý: Na là kim loại nguy hiểm. Một miếng Na rơi vào nước sẽ bùng lên ngọn lửa gây nổ lớn. Na rơi xuống da người sẽ gây vết bỏng sâu, vì vậy cần thận trọng khi cầm một xu páp có chứa Na bị nứt hoặc bị gẫy. Xử lý một xu páp làm bằng Na cũ hỏng cần xử lý như một chất xả nguy hiểm.